Giới hạn di dân Việc_di_dân_và_bỏ_chạy_từ_khối_phía_đông

Giới hạn di dân ở Liên Xô

Chiếu khán Liên Xô "loại 2" hiếm có cho di dân vĩnh viễn

Mặc dù chương trình đầu tiên của phong trào Bolshevik ở Nga gồm cả một đòi hỏi "hủy bỏ hộ chiếu",[9] chỉ 2 tháng sau Cách mạng Nga (1917), chế độ mới đã áp dụng kiểm soát hộ chiếu và cấm những người có quốc tịch của các nước tham chiến rời khỏi.[10] Lý do một phần là việc di cư có thể vì đối lập với nhà nước xã hội chủ nghĩa và họ cũng sợ là sự di cư sẽ làm tăng mạnh các quân đội đối nghịch.[10] Hiệp ước Brest-Litovsk 1918 ép buộc Nga phải cho phép di dân những người không phải dân Nga muốn có quốc tịch Đức, nhưng nhà cầm quyền dự định giảm dòng chảy này bằng cách chỉ cho phép ra đi trong vòng một tháng.[10] Bắt đầu năm 1919, đi ra ngoại quốc đòi hỏi sự chấp thuận của NKVD, và với sự đồng ý của một cơ quan đặc biệt của Cheka kể từ năm 1920.[10] Năm 1922, sau Hiệp ước thành lập Liên Xô, cả CHXHCNXV UkrainaCHXHCNXVLB Nga ra luật tổng quát về du hành ngăn chặn trước hầu như tất cả các sự ra đi, làm cho việc di dân hợp pháp là việc không thể thực hiện được.[11] Tuy nhiên, Liên Xô không thể kiểm soát ranh giới của mình cho đến khi một hệ thống kiểm soát biên giới được thành lập qua một quân đoàn đặc biệt của Gosudarstvennoye Politicheskoye Upravlenie (GPU), vào năm 1928, làm cho cả việc di cư bất hợp pháp cũng không còn có thể thực hiện được nữa.[11]

Năm 1929, việc kiểm soát lại càng chặt chẽ hơn, có sắc lệnh là bất cứ các nhân viên Liên Xô nào mà phục vụ ở ngoại quốc đi sang "trại của quân thù của giới công nhân và nông dân" và từ chối không trở về sẽ bị hành quyết trong vòng 24 tiếng nếu bị bắt được.[12] Năm 1932, khi Stalin mới bắt đầu chính sách bắt buộc tập thể hóa, để tìm ra những chỗ ở khó tìm, và để tiêu diệt những phần tử không sản xuất, họ ra luật kiểm soát hộ chiếu nội địa.[12] Khi phối hợp với giấy phép cư trú ở các thành phố, và giới hạn tự do đi lại trong nước, những luật lệ này hạn chế việc di chuyển ngay cả trong phạm vi nhỏ.[12] Khi hiến pháp Liên Xô 1936 được ban hành, hầu như không còn có di cư hợp nào nữa xảy ra, ngoại trừ việc xum họp gia đình rất giới hạn và vài việc đưa đi đày cưỡng ép.[12] có một số rất nhỏ lẻn sang Romania, Persia, và Manchuria, nhưng hầu hết các dân chúng thì sống như bị giam giữ.[13] Moskovskaya Pravda sau này mô tả quyết định di dân như là "không tự nhiên, giống như là chôn sống ai đó."[14] Những ước muốn rời khỏi đất nước, không những chỉ bị xem là những người bỏ chạy mà còn bị coi là những kẻ phản quốc.[14]

Việc di động sức lao động thì không thể thực hiện được nếu di dân có thể được lựa chọn khi mức sống căn bản tương đối thấp mà tồn tại vào lúc đó.[15] Thủ tướng Liên xô Nikita Sergeyevich Khrushchyov sau này nói rằng "Chúng tôi hoảng sợ, thực sự hoảng sợ. Chúng tôi sợ sự tan băng có thể làm thoát ra cơn lụt, mà chúng ta không thể kiểm soát và có thể nhấn chìm chúng ta. Tại sao nó có thể làm chúng ta chết chìm? Nó có thể tràn ngập bờ sông Liên Xô và hình thành một cơn sóng thủy triều mà cuốn trôi đi những cản trở và để lại những bức tường của xã hội chúng ta."[14]

Cộng thêm vào đó, việc hạn chế di dân được dùng để giữ bí mật về cuộc sống ở Liên Xô.[16] Bắt đầu vào năm 1935, Joseph Stalin đã bắt đầu cắt đứt những đường giao thông từ bên ngoài vào các nước Cộng hòa Xã hội Xô Viết một cách hiệu quả (và cho tới khi ông ta chết), một cách hiệu quả không cho phép người ngoại quốc du hành trong Liên Xô để mà người bên ngoài không biết tới những tiến triển chính trị đã xảy ra bên trong.[17] Trong suốt thời kỳ này, và cho tới cuối thập niên 1970, 25 năm sau cái chết của Stalin vào năm 1953, một số ít nhân viên ngoại giao và và thông tín viên ngoại quốc được cho phép ở bên trong Liên Xô nhưng thường bị giới hạn trong một vài cây số của Moskva, trong khi điện thoại của họ bị nghe lén, nơi cư trú của họ bị giới hạn trong khu vực chỉ cho ngoại quốc ở, và họ thường bị theo dõi bởi nhà cầm quyền Liên Xô.[17] Những nhà bất đồng chính kiến mà lại gần những người ngoại quốc như vậy sẽ bị bắt giữ.[16] Trong nhiều năm sau thế chiến thứ hai, ngay cả những người biết nhiều tin tức cũng không biết con số những công dân Liên Xô bị giam giữ hay bị hành quyết, hay nền kinh tế Liên Xô đã phát triển tệ đến mức nào.[16]

Bỏ trốn và trục xuất người gốc Đức ở khối phía đông

Người Đức ở Sudetenland bị trục xuất sau thế chiến thứ hai

Vào cuối và sau thế chiến thứ hai, ít nhất 12 triệu người gốc Đức (Volksdeutsche hay Reichsdeutsche) bỏ trốn hay bị trục xuất,[18][19][20][21] Barbara Marshall ước tính là số người gốc Đức bỏ trốn hay bị trục xuất là khoảng 15 triệu.[22]:6 phần lớn ở và từ những lãnh thổ bị Liên Xô chiếm đóng trở thành khối phía đông, làm cho nó trở thành việc di dân lớn nhất trong lịch sử châu Âu hiện đại.[19][23] Việc trục xuất này đã được đồng minh của thế chiến thứ hai đồng ý trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt.[24][25][26] Ít nhất 2 triệu người đã chết trong khi bỏ chạy hay bị trục xuất, 400.000 tới 600.000 vì bạo lực.[27][28] Tất cả những việc này xảy ra giữa 1944 và 1948.[29][30] Con số tổng cộng bao gồm một số lớn chạy từ những vùng gần chiến trường khi hồng quân tiến vào những khu vực người Đức cư trú.[31] Nhiều người biết về sự trả đũa của Liên Xô dối với thường dân Đức,[32] chẳng hạn như binh lính Liên Xô hãm hiếp và phạm các tội ác khác.[32][33] Tin tức của những hành động tàn bạo, như vụ thảm sát Nemmersdorf gây nhiều tranh cãi,[32] cũng, một phần, được phóng đại và loan truyền bởi dàn máy tuyên truyền Quốc xã . Nhiều người gốc Đức cũng chạy sang nước Đông Đức tương lai, từ các nước khối phía đông.

Di cư tập thể Đông Âu về phía Tây 1945 tới 1950

Sau khi Liên Xô chiếm đóng Đông Âu vào cuối thế chiến thứ hai, đa số người dân sống ở những vùng này ao ước độc lập và muốn quân đội Liên xô rút quân.[34] Trong khi hàng triệu người gốc Đức bỏ đi hay bị trục xuất từ Đông Âu, vào khoảng 4 triệu người gốc Đức đã bị ngăn cản không cho di cư bởi quân đội Liên Xô hay đưa tới những vùng hẻo lánh của Liên Xô như là một phần chính sách của Stalin đối với người dân gốc Đức.[22]:8

Trước 1950, trên 15 triệu người đã di cư từ các nước Đông Âu bị Liên Xô chiếm đóng sang phía Tây trong 5 năm ngay sau thế chiến thứ hai.[35] Cho tới đầu thập niên 1950, biên giới giữa các vùng Đức bị chiếm đóng có thể đi qua dễ dàng.[36] Lợi dụng đường này, con số người Đông Âu xin tị nạn chính trị ở Đức là 197.000 năm 1950, 165.000 năm 1951, 182.000 năm 1952 và 331.000 năm 1953,[36] Một trong những lý do cho sự gia tăng nhảy vọt vào năm 1953 là sự lo sợ việc Sô Viết hóa gia tăng sẽ làm tăng thêm những hành động hoang tưởng của Joseph Stalin vào cuối 1952 và đầu 1953.[37] 226.000 đã chốn chạy chỉ trong 6 tháng đầu 1953.[8] Bởi vì thiếu thốn điều kiện và chỗ ở Tây Đức, theo yêu cầu của Truman năm 1952, Hoa Kỳ đã gia tăng số người được phép di cư theo "chương trình Chốn thoát tới Hoa Kỳ" (USEP).[36] Sau cuộc cách mạng Hungary năm 1956, 171.000 người tị nạn Hungary đã vượt biên giới sang Áo, trong khi 20.000 đã sang Nam Tư.[38]

Năm 1948, trong cuộc tranh luận về một tuyên bố chung về nhân quyền, Liên Xô đã không chấp nhận câu "Mỗi người có quyền đi ra khỏi bất cứ nước nào kể cả nước của mình."[39] Lý luận là "nó sẽ khuyến khích di dân", Liên Xô muốn thêm câu "phù hợp với thủ tục theo luật lệ của nước đó ", mà chỉ được sự ủng hộ của Ba Lan và Saudi Arabia.[39]

Giới hạn di dân và biên giới các vùng Đức

Xe tăng Mỹ và Liên Xô tại Checkpoint Charlie 1961Trạm biên giới Helmstedt-Marienborn tường và cổng gác

Những giới hạn được lập ra ở khối phía đông trong thời kỳ chiến tranh lạnh làm ngưng hầu hết cuộc di dân Đông-Tây, với chỉ 13,3 triệu di dân giữa 1950 và 1990.[40] Vào đầu thập niên 1950, phương pháp của Liên Xô để kiểm soát các di chuyển trong nước được noi theo bởi hầu hết các nước còn lại trong khối phía đông (cùng với Trung Quốc, Mongolia và Bắc Triều Tiên),[41] với nhiều giới hạn để ngăn ngừa cuộc di dân.[22]:8 Một nhà kinh tế Hungary nói rằng "Hiển nhiên là các nước Xã hội chủ nghĩa cũng như các nước khác ngăn ngừa các nhà chuyên môn, được huấn luyện do tiền bạc của xã hội, không được sử dụng để làm giàu các nước khác."[41] Những phát ngôn viên Đông Âu khẳng định là họ chỉ muốn những người muốn di dân khỏi bị đưa vào tình trạng thiếu khả năng diễn tả ngôn ngữ và thiếu chuẩn bị về văn hóa.[42] Họ cũng nhấn mạnh, cái nợ mà mỗi cá nhân thiếu nhà nước xã hội, mà là sự chăm sóc từ khi đẻ ra, bao gồm sự trợ cấp giáo dục và huấn luyện[42] Và như vậy, họ biện hộ cho việc giới hạn di dân như là một thuế giáo dục mà nhà nước có quyền lấy lại sự đầu tư của họ.[42] Mở một chính sách di dân sẽ tạo ra "chảy máu chất xám", bắt buộc nhà nước phải thay đổi cấu trúc lương lậu với cái giá mà các ưu tiên về kinh tế khác phải trả.[43] Những nhà đại diện cho Bulgaria và Romania lý luận họ không thể trả lương như phương Tây, và nếu không có giới hạn di dân, họ sẽ có tình trạng như ở Phi Châu."[43] Những giới hạn đưa một vài nước khối phía đông, mà nền kinh tế tiến bộ hơn và cởi mở hơn Liên Xô, vào tình thế lúng túng khó xử, vì những việc vượt biên giới như vậy dường như là tự nhiên, nhất là khi không có biên giới như vậy giữa Đông và Tây Đức.[43]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Việc_di_dân_và_bỏ_chạy_từ_khối_phía_đông http://www.brianrose.com/lostborder.htm http://www.e-cityvisit.com/thewall.html http://www.lucascabbia.com/ita/gallerie/borders/bo... http://berlinwall.soaringdevelopment.com http://www.berlin.de/mauer/index.en.html http://www.chronik-der-mauer.de/index.php/de/Start... http://www.dradio.de/dlf/sendungen/kulturheute/569... http://www.google.de/books?id=S8nsdMcJq4cC&pg=PA39... http://www.google.de/books?id=grTPyVvBr2QC&pg=PA11... http://www.google.de/books?id=ovck_g0xwX0C&pg=PA10...